Kế hoạch Marshall (Marshall Plan) là một
kế hoạch trọng yếu của
Hoa Kỳ nhằm tái thiết và thiết lập một nền móng vững chắc hơn cho các quốc gia
Tây Âu, đẩy lùi
chủ nghĩa cộng sản sau
Chiến tranh thế giới thứ hai. Mang tên chính thức "
Kế hoạch phục hưng châu Âu" (European Recovery Program - ERP), nhưng Kế hoạch Marshall thường được gọi theo tên của
Ngoại trưởng Mỹ George Marshall, người đã khởi xướng và ban hành kế hoạch. Kế hoạch Marshall là thành quả lao động của các quan chức
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, trong đó ghi nhận sự đóng góp đặc biệt của
William L. Clayton và
George F. Kennan.Kế hoạch tái thiết được phát triển tại cuộc họp mặt của các quốc gia
Châu Âu ngày
12 tháng 7 năm
1947. Kế hoạch Marshall đề ra việc viện trợ tương đương cho
Liên Xô và đồng minh của họ, nhưng không được chấp nhận. Kế hoạch được thực thi trong vòng 4 năm, kể từ tháng 7 năm 1947. Trong thời gian đó, có khoảng 17
tỷ đô la Mỹ viện trợ kinh tế và hỗ trợ kỹ thuật để giúp khôi phục các quốc gia châu Âu tham gia
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế - OECD.
[1] Nhiều quốc gia châu Âu đã nhận được viện trợ trước khi có Kế hoạch Marshall, kể từ năm 1945, cùng với các điều kiện chính trị kèm theo.Kế hoạch Marshall cũng là một phần trong kế hoạch chính trị của Mỹ nhằm tăng cường ảnh hưởng đối với các nước Đồng minh Tây Âu và chống lại Liên Xô, cũng như để tạo thuận lợi cho việc kinh doanh của các Tập đoàn xuyên quốc gia Mỹ tại Tây Âu. Để phục vụ mục đích này, Mỹ đã viện trợ kinh tế cho cả chính quyền
phát xít Tây Ban Nha, cũng như viện trợ chiến phí cho
thực dân Pháp,
thực dân Hà Lan quay trở lại xâm chiếm
Đông Nam Á. Cho tới khi kết thúc dự án, nền
kinh tế của các quốc gia nằm trong Kế hoạch, ngoại trừ
Tây Đức, đã phát triển vượt mức trước chiến tranh.Trong vòng hai thập kỷ tiếp đó, nhiều vùng ở Tây Âu tiếp tục đạt được mức tăng trưởng chưa từng có trước đó. Kế hoạch Marshall cũng được xem là một trong các thành tố của quá trình hội nhập châu Âu, vì nó xóa bỏ
hàng rào thuế quan và thiết lập các cơ quan điều phối kinh tế tầm cỡ lục địa.Trong những năm gần đây, các sử gia đặt câu hỏi về cả động cơ bên trong cũng như tính hiệu quả chung của Kế hoạch Marshall. Một số sử gia cho rằng hiệu quả của Kế hoạch Marshall thực tế là từ chính sách
laissez-faire (tạm dịch: thả nổi) cho phép thị trường tự bình ổn qua sự phát triển kinh tế.
[2] Người ta cho rằng
Tổ chức Cứu trợ và Phục hồi của
Liên Hiệp Quốc, vốn giúp hàng triệu người tị nạn từ năm 1944 tới 1947, cũng giúp đặt nền móng cho sự phục hồi châu Âu thời hậu chiến.